Trang chủ / ĐỒ THỜ ĐÁ ĐẸP / 3Văn khấn đền quan lớn đệ tam đền lảng giang

3Văn khấn đền quan lớn đệ tam đền lảng giang

3Văn khấn đền quan lớn đệ tam đền lảng giang

3Văn khấn đền quan lớn đệ tam đền lảng giang, (nhân dân thường gọi là Đền Lảnh) nằm trong địa phận thôn Yên Lạc, xã Mộc Nam, huyện Duy Tiên, Hà Nam. Theo Thần Phả, Đền này thờ Tam vị danh thần họ Phạm đời Hùng Vương thứ 18, Tiên Dung công chúa và Chử Đồng Tử.

3Văn khấn đền quan lớn đệ tam đền lảng giang
3Văn khấn đền quan lớn đệ tam đền lảng giang

Chuẩn Bị Lễ Vật Đi Lễ Đền Lảnh Giang

Lễ vật cơ bản

Hương thơm: Một bó hương sạch.

Đèn/nến: Một cặp đèn dầu hoặc nến.

Hoa tươi: Hoa sen, hoa cúc vàng, hoặc hoa hồng đỏ.

Ngũ quả: Chuối, bưởi, cam, táo, dứa hoặc các loại quả theo mùa.

Trầu cau: Một đĩa trầu cau tươi.

Rượu/trà: Một chén rượu hoặc trà.

Bánh kẹo: Một đĩa bánh kẹo ngọt đơn giản.

Lễ vật đặc biệt (nếu có)

Xôi gấc, gà luộc: Tượng trưng cho lòng thành kính.

Tiền vàng mã: Quần áo giấy, hài giấy, tiền vàng.

Bánh chưng, bánh dày: Biểu tượng cho sự viên mãn và đủ đầy.

Cách sắp xếp lễ vật

Đặt hương và đèn/nến ở trung tâm bàn lễ.

Hoa quả và bánh kẹo bày hai bên, đảm bảo cân đối và gọn gàng.

Hướng Dẫn Thực Hiện Nghi Lễ Tại Đền Lảnh Giang

Chuẩn bị không gian lễ cúng

Khu vực lễ cúng cần được dọn dẹp sạch sẽ trước khi bày lễ vật.

Sắp xếp bàn lễ ngay ngắn, không để bừa bãi hoặc thiếu trang nghiêm.

Tiến hành nghi lễ

Thắp hương và đèn/nến trên bàn lễ.

Đứng nghiêm trang, chắp tay và đọc bài văn khấn với lòng thành kính.

Cầu nguyện những điều mong muốn, xin sự che chở và bảo hộ từ Tam vị Đại Vương.

Cảm tạ và thu dọn lễ vật

Khi hương cháy hết, cảm tạ các vị thần linh và xin phép hạ lễ.

Hóa vàng mã theo đúng phong tục và dọn dẹp sạch sẽ khu vực thờ cúng.

Văn Khấn Đền Lảnh Giang

Nam mô A Di Đà Phật! (3 lần)

Con kính lạy chín phương Trời, mười phương Chư Phật, Chư Phật mười phương.
Con kính lạy Đức Thánh Tam vị Đại Vương, các vị thần linh cai quản tại Đền Lảnh Giang.

Hôm nay là ngày… tháng… năm… (âm lịch).
Tín chủ con là… (họ tên đầy đủ).
Ngụ tại… (địa chỉ).

Thành tâm sửa biện hương hoa, lễ vật, kính dâng lên các vị thần linh.
Cúi xin các Ngài từ bi chứng giám lòng thành, phù hộ độ trì cho gia đình con được bình an, mạnh khỏe, tài lộc dồi dào, công danh sự nghiệp hanh thông, vạn sự như ý.

Chúng con nguyện sống tốt đời đẹp đạo, làm nhiều việc thiện, góp phần xây dựng quê hương, đất nước.

Nếu có điều gì thiếu sót, kính mong các Ngài lượng thứ.

Nam mô A Di Đà Phật! (3 lần)

Sự tích đền quan lớn đệ tam

Đệ Tam Tôn Quan là vị Quan Lớn thứ ba trong hàng Ngũ Vị Tôn Ông. Tên đầy đủ của ngài là Đệ Tam Thượng Thiên Hoàng Thái Tử Vương Quan với sắc phong Thủy Tào Điển Sứ – Đệ Tam Thủy Thần Nhạc Đại Vương Thượng Đẳng Tối linh thần. Trong hệ thống thống thần linh Tam, Tứ Phủ, Quan Lớn Đệ tam là vị nam thần có vai trò quan trọng, ông đảm nhiệm cai quản “đầu đồng”, bút phê sớ khảo. Là vị thần tối cao của Thoải phủ, ông được thờ phụng khắp các khu vực sông nước với nhiều sự linh thiêng của bậc Thượng đẳng thần.

Căn cứ vào thần tích “Hùng triều nhất vị thuỷ thần xuất thế sự tích” (sự tích ra đời một vị thuỷ thần triều vua Hùng(() Thần tích này do Bát phẩm thư lại Nguyễn Hiền, tuân theo bản cũ triều trước, chép lại vào niên hiệu Vĩnh Hựu thứ 2 (1736). Thần tích đang được lưu giữ tại Đền Lảnh.) cùng các sắc phong, câu đối, cũng như truyền thuyết địa phương thì lịch sử ba vị tướng họ Phạm thời Hùng Vương được thờ ở Đền Lảnh Giang như sau:

Đền Quan Lớn Đệ Tam Ngày xưa, ở trang An Cố, huyện Thuỵ Anh, phủ Thái Ninh, trấn Sơn Nam có vợ chồng ông Phạm Túc ăn ở phúc đức, chỉ hiềm một nỗi ông bà tuổi đã cao mà vẫn chưa sinh được một mụn con nối dõi.

Một đêm trăng thanh gió mát, vợ ông (bà Trần Thị Ngoạn) đang dạo chơi bỗng gặp một người con gái nhà nghèo, cha mẹ mất sớm, không có anh em thân thích, đi tha phương cầu thực. Động lòng trắc ẩn, bà Ngoạn liền đón cô về làm con và đặt tên là Quý. Ông bà coi nàng Quý như con ruột của mình. Vài năm sau, trong lúc gia đình đang vui vầy, đột nhiên ông Túc mắc bệnh rồi qua đời. Hai mẹ con đã tìm một nơi đất tốt để an táng cho ông.

Sau ba năm để tang cha, một hôm nàng Quý ra bờ sông tắm gội, ngâm mình dưới nước, bỗng mặt nước nổi sóng, từ phía xa một con thuồng luồng khổng lồ bơi tới quấn lấy nàng, khiến nàng kinh hoàng ngất lịm. Lúc tỉnh dậy thì thấy mình nằm bên bờ sông và thuồng luồng đã bỏ đi. Từ hôm đó nàng thấy trong lòng chuyển động và mang thai.

Không chịu được những lời gièm pha khinh thị, nàng đành phải trốn khỏi làng đến xin ngụ cư ở Trang Hoa Giám (nay thuộc thôn Yên Lạc). Rồi đến ngày mùng 10 tháng Giêng năm Tân Tỵ, nàng Quý chuyển dạ, sinh ra một cái bọc. Cho là điểm chẳng lành, nàng liền đem chiếc bọc đó quẳng xuống sông. Chiếc bọc trôi theo dòng nước tới trang Đào Động (xã An Lễ, huyện Quỳnh Phụ, Thái Bình), mắc phải lưới của ông Nguyễn Minh.

Sau nhiều lần gỡ bỏ, nhưng bọc vẫn cứ mắc vào lưới. Ông Minh thấy lạ bèn khấn: “Nếu bọc này quả là linh thiêng thì cho tôi lấy dao rạch thử xem sao” Khấn xong ông Minh rạch ra, bỗng thấy ba con rắn từ trong bọc trườn xuống sông. Con thứ nhất theo hướng về cửa sông Đào Động, con thứ hai về Thanh Do, con thứ ba về trang Hoa Giám – nơi nàng Quý đang sinh sống. Nhân dân các trang ấp trông thấy đều sợ hãi, cùng nhau ra bờ sông tế tụng, xin được lập sinh từ để thờ.
Quan Lớn Đệ Tam lạ thay, vào một đêm trăng sáng, trời bỗng nổi cơn giông, ngoài cửa sông sấm sét nổi lên dữ dội. Đến gần sáng, gió mưa ngớt dần, mọi người đều thấy dưới sông có tiếng người ngâm vịnh:

Sinh là tướng, hóa là thần

Tiếng thơm còn ở trong dân muôi đời

Khi nào giặc dã khắp nơi

Bọn ta mới trở thành người thế gian

Tương truyền ba vị tướng thời Hùng là con của Bát Hải Long Vương và Nàng Quý. Nàng Quý là con nuôi của vợ chồng ông Phạm Túc. Do vậy về sau nhân dân ghép họ Phạm cho các ông.).

Bấy giờ Thục Phán – thuộc dòng dõi tôn thất vua Hùng, thấy Duệ Vương tuổi đã cao mà không có con trai, nên có ý định cướp ngôi. Thục Phán cầu viện binh phương Bắc, chia quân làm 5 đường thuỷ bộ cùng một lúc đánh vào kinh đô. Duệ Vương cho gọi tướng sĩ lập đàn cầu đảo giữa trời đất. Đêm ấy nhà vua chiêm bao thấy có người sứ giả mặc áo xanh từ trên trời bước xuống sân rồng, truyền rằng: “Nhà vua nên triệu ba vị thuỷ thần sinh ở đạo Sơn Nam, hiện còn là hình con rắn thì tất sẽ dẹp xong được giặc”.

Tỉnh dậy Duệ Vương liền cho sứ giả theo đường chỉ dẫn trong giấc mộng tìm về đạo Sơn Nam. Sứ giả vừa đến trang Đào Động (nay thuộc xã An Lễ, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình), bỗng nhiên trời đổ mưa to, sấm sét nổi lên dữ dội ở cửa sông. Một người mặt rồng mình cá chép, cao tám thước đứng trước sứ giả xưng tên là Phạm Vĩnh, xin được đi dẹp giặc. Sau đó, ông Phạm Vĩnh gọi hai em đến bái yết thân mẫu, rồi cùng nhau đi yết kiến Duệ Vương.

Vua Hùng liền phong cho ông là Trấn Tây, giữ các vùng Sơn Nam, ái Châu, Hoan Châu. Hai em và các tướng hợp lại, dưới sự chỉ huy của ông, 5 đạo quân Thục đều bị tiêu diệt.

Nghe tin thắng trận, Duệ Vương liền truyền lệnh giết trâu, mổ bò khao thưởng quân sĩ. Vì có công lớn nên nhà vua lại phong cho ông là “Nhạc Phủ Ngư Thượng Đẳng Thần” nhưng ông không nhận, chỉ xin cho dân Đào Động hàng năm không phải chịu sưu dịch. Được vua Hùng đồng ý, ông Phạm Vĩnh cùng hai em về quê hương bái yết thân mẫu và khao thưởng gia thần, dân chúng.
Đền Lảnh Giang Thấy ở bên sông có khu đất tốt, ông Phạm Vĩnh cho lập đồn dinh cư trú, ban cho dân 10 hốt vàng để mua ruộng đất, khuyến khích nông trang, khuyên mọi người làm việc thiện lương. Nhờ công đức của ông mà nhân dân khắp vùng được sống yên vui.

Ngày 25 tháng 8 năm Bính Dần, trong lúc ông đang ngự tại cung thất của mình, bỗng dưng giữa ban ngày trời đất tối sầm, mưa gió ầm ào đổ xuống. Khi trời quang mây tạnh, dân làng không nhìn thấy ông đâu nữa. Cho là điều kỳ lạ, nhân dân trang Đào Động làm biểu tâu với triều đình.

Được tin ông Phạm Vĩnh về trời, nhà vua liền gia phong cho ông là “Trấn Tây An Tam Kỳ Linh Ưng Thái Thượng Đẳng Thần”, đồng thời đặt lệ quốc lễ, ban sắc chỉ cùng 400 quan tiền cho dân Đào Động rước thần hiệu, tu sửa đền miếu để phụng thờ.

Các triều đại sau đó cũng có sắc phong cho ông (hiện trong đền còn giữ 12 sắc phong. Sắc sớm nhất là đời Lê Cảnh Hưng, sắc muộn nhất vào triều Nguyễn, niên hiệu Duy Tân thứ 7, ngày 18 tháng 10 có chép: “Sắc cho xã An Lạc, huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam phụng thờ Trấn An Tây Nam Tam Kỳ Linh ứng triều Hùng thiêng liêng rõ rệt, trước đây chưa có dự phong. Gặp nay trẫm vâng chịu mệnh lớn, nghĩ đến công thần biểu dương phong cho vị thần, phò giúp nền nếp quốc gia, cho phép y theo lệ cũ kính thờ”.

Hàng năm tại Đền Lảnh Giang, nhân dân địa phương tổ chức 2 kỳ lễ hội chính vào các ngày từ 18 đến 25 tháng 6 và tháng 8 âm lịch. Theo tục lệ địa phương thì kỳ lễ hội tháng 6 là để dành cho các khách thập phương, còn kỳ lễ hội tháng 8 chủ yếu dành cho các khách quanh vùng. Những ngày này thường gặp nước sông Hồng dâng cao nhưng lòng dân vẫn hướng về ngày lễ hội.

Có nhiều năm nước ngập nhưng các thiện nam tín nữ cùng nhân dân bản địa vẫn bơi thuyền ra đền dâng lễ và thực hiện đầy đủ các nghi thức để tỏ lòng tôn kính tam vị danh thần họ Phạm, Tiên Dung và Chử Đồng Tử.
Đền Quan Lớn Đệ Tam – Quan Lớn Đệ Tam – Đền Lảnh Giang Cụ Bùi Bằng Đoàn(() Cụ Bùi Bằng Đoàn (1886 – 1953) là người xã Liên Bạt, huyện Sơn Lăng tỉnh Hà Đông (nay là Hà Tây). Cụ đỗ Cử nhân năm Thành Thái thứ 18 (1906), làm Thượng thư Bộ Hình. Sau Cách mạng tháng tám 1945, cụ được làm Trưởng ban Thường vụ Quốc hội nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Bài thơ này cụ viết vào tháng 2/1907.) khi viết về công lao đánh giặc của ba vị tướng họ Phạm thời Hùng Vương thờ tại Đền Lảnh Giang trong tập sách “Giang Sơn cổ tích đề vịnh”, có bài thơ như sau:

“Hùng gia quý thế tam huynh đệ

Phạm tộc giang hương phả tượng truyền

Phá tặc an dân nhân dĩ viễn

Anh thanh thiên cổ nguyệt cao huyền”.

Dịch là:

Anh em ba vị cuối triều Hùng

Họ Phạm quê nhà xóm bãi sông

Đánh giặc cứu dân người đã khuất

Còn nêu sự nghiệp sáng trăng trong.

Trong báo cáo ngày 16/5/1996, cơ quan Bảo tàng lịch sử tỉnh Nam Hà (cũ) có nhận xét: Đền Lảnh Giang là di tích thờ ba vị tướng họ Phạm thời Hùng Duệ Vương có công lao đánh giặc Thục, bảo vệ nền độc lập tự do của dân tộc. Khi đất nước thanh bình, các ông là những người quan tâm, chăm lo đến sản xuất, làm cho đời sống nhân dân ngày một ấm no hạnh phúc… Đền Lảnh Giang là công trình kiến trúc quy mô, uy linh, bề thế, mang đậm nét nghệ thuật kiến trúc và xây dựng cổ truyền của dân tộc. Tại đây còn giữ được nhiều cổ vật thờ cúng có giá trị cao về nghệ thuật.

Từ những giá trị về lịch sử và kiến trúc nghệ thuật cổ truyền dân tộc của Đền Lảnh Giang, ngày 5/11/1996, Bộ Văn hóa Thông tin đã cấp bằng công nhận đền Lảnh Giang là Di tích lịch sử văn hóa quốc gia. Vào những ngày lễ hội mọi du khách thập phương đến dâng hương nhang cầu bình an cho người thân.