Văn khấn dạm ngõ cưới hỏi, sắm lễ cúng tơ hồng
Văn khấn dạm ngõ cưới hỏi, sắm lễ cúng tơ hồng, Văn cúng, văn khấn trong lễ cưới (lễ hợp hôn tơ hồng): Sau khi đón dâu về, gia đình chú rể bày hương án ra sân, dùng lễ xôi gà trầu rượu, chủ hôn vào lễ trước, rồi hai vợ chồng vào lễ sau, thường lệ có đọc văn tế.
Lễ tơ hồng là gì?
Lễ cúng tơ hồng là lễ cúng cảm ơn Ông Tơ Bà Nguyện. Ông bà ta quan niệm răng:
Cặp nam nữ nên duyên vợ chồng là duyên nợ đã được sắp đặt trước. Hay nói một cách dễ hiểu,
đây chính là mối lương duyên do Ông Tơ Bà Nguyệt se duyên.
Với những bạn trẻ ngày nay thường cho rằng đây là thủ tục rườm rà, lạc hậu và không nên tin.
Tuy nhiên, với những gia đình truyền thống thì đây là lễ cúng chứa đựng nhân văn, biết ơn và giáo huấn cặp vợ chồng trẻ phải sống thật hạnh phúc.
Văn khấn yết cáo Gia Thần, Gia tiên:
-Con kính lạy Hoàng thiên Hậu Thổ chư vị Tôn thần.
-Con kính lạy ngài Bản cảnh Thành hoàng, ngài Bản xứ Thổ địa,ngài Bản gia Táo quân cùng chư vị Tôn thần.
-Con kính lạy tiên họ… chư vị Hương linh.
Tín chủ (chúng) con là:…
Ngụ tại:…
Hôm nay là ngày….. tháng…….năm …
Tín chủ con có con trai (con gái) kết duyên cùng …
Con của ông bà …
Ngụ tại:…
Nay thủ tục hôn lễ đã thành. Xin kính dâng lễ vật, gọi là theo phong tục nghi lễ thành hôn và hợp cẩn, trước linh toạ Ngũ tự Gia thần chư vị Tôn linh, truớc linh bài liệt vị gia tiên chư chân linh xin kính cẩn khấn cầu:
Phúc tổ đi lai,
Sinh trai có vợ (nếu là nhà trai),
Sinh gái có chồng (nếu là nhà gái)
Lễ mọn kính dâng,
Duyên lành gặp gỡ,
Giai lão trăm năm,
Vững bền hai họ,
Nghi thất nghi gia,
Có con có của.
Cầm sắt giao hoà,
Trông nhờ phúc Tổ.
Chúng con lễ bạc tâm thành, xin được phù hộ độ trì.
Lời văn khấn sau khi rước dâu về và chuẩn bị lễ vật:
“Hôm nay, ngày… tháng… năm…
Chủ hôn là… người thôn… xã… huyện… tỉnh…
Có con trai (trưởng, thứ) tên là… kết duyên cùng… con gái (trường, thứ) của ông bà… người xã… huyện… tỉnh…
Nay thủ tục hôn lễ đã thành, xin kính dăng lễ mọn gồm… gọi là theo phong tục lễ nghi thành hôn.
Trước án thờ tơ hồng Nguyệt lão thiên tiên
Trước linh toạ ngũ tự gia thần chủ tôn linh.
Trước liệt vị gia tiên chủ chăn linh.
… Khấn rằng : Tơ hồng Nguyệt lão thiên tiên
Rất công rất chính,
Chẳng vị chẳng thiên.
Gương Ngọc kính soi thông thế sự ;
Sợi xích thằng giao kết nhân duyên.
Trước theo nhạn cá thông môi, trạch phối hôn nhân tuy rằng phận đinh ;
Nay mừng uyên ương gặp lứa, tác thành gia thất, vốn tự tiên nhiên.
Ngửa trông linh đức;
Chứng giám vi kiêm
Hoà hiếu chung vui hai họ ỉ
Xướng tuỳ những ước bách niên
Nhờ ra con có của nên, điều lên chỉ từ nay hợp cẩn.
Mong được duyên ưa phận đẹp, phúc chung tư đội đức Thiên tiên. Cẩn cáo”.
Sau lễ tế ông Tơ bà Nguyệt, cô dâu chú rể vào phòng riêng, cụ ông cầm hương dẫn đoàn đón dâu của nhà trai trải chiếu cho cô dâu chú rể. Chiếu phải trải phẳng, kiêng trải lệch. Sau đó cụ rót hai chén rượu mời cô dâu chú rể uống, rồi ý tứ lui ra ngoài khép cửa buồng lại. Cô dâu chú rể sẽ ăn cùng với nhau bữa cơm đầu tiên.
Khi nhập phòng, người chồng lấy cơi trầu tế Tơ hồng trao một miếng cho vợ, rót một chén rượu, mỗi người uống một nửa, gọi là lễ Hợp cẩn. Thời xưa, vợ lạy chồng hai lạy, chồng đáp lại bằng ba vái để tỏ lòng tương kính.
Nhiều gia đình phong kiến thời xưa, phỏng theo tục lệ Trung Quốc, đêm tân hổn cho lót giấy bản, gọi là giây thám trinh, để xem ngưòi con gái còn trinh tiết hay không. Nếu còn trinh thì sẽ có mấy giọt máu trên giấy. Nếu không, trong lễ lại mặt, nhà gái sẽ nhận được một cái thủ lợn cắt lỗ tai, ngầm báo nhà trai sẽ trả lại cô dâu vì đã mất trinh.
Ngày nay, văn cúng trong lễ hợp hôn lễ tơ hồng cũng có nhiều thay đổi. Bài văn cũng ngắn gọn và dễ hiểu hơn như: