Văn khấn đền trình/bài cúng sắm lễ đúng nhất
Văn khấn đền trình/bài cúng sắm lễ đúng nhất, Đền Trình chùa Hương hay còn gọi là Ngũ Nhạc Linh Từ, là ngôi đền nhỏ nằm ngay bên bìa phải của dòng Suối Yến cách bến đò khoảng 500m thuộc tuyến du lịch chính đi vào chùa Thiên Trù và động Hương Tích – một địa danh hấp dẫn của khách quan du lịch khi đến thăm quan quần thể di tích và danh thắng Chùa Hương.

Đền Trình được xây dựng dưới chân núi Ngũ Nhạc. Ngũ Nhạc là một dãy núi gồm 5 ngọn núi liền kề nhau tạo thành một vệt hình dáng giống một con Thanh Long (Rồng xanh) nằm phục gác cổng trời Nam. Theo thuyết phong thuỷ núi Ngũ Nhạc là dãy núi với hình thế rõ ràng,
dáng núi uy nghiêm, minh đường tụ thuỷ, sinh khí trường tồn. Năm ngọn núi kế tiếp nhau, có cây to bóng mát, có chim thú tụ về là khu rừng cấm của cư dân làng Yến Vĩ. Qua nhiều đời truyền lại, xa xưa đây chỉ là một ngôi đền nhỏ, thờ vị thần tướng đã có công đánh giặc Ân phù vua Hùng Huy Vương.
Truyền thuyết và Thần phả kể rằng:
Vào đời Vua Hùng Huy Vương thứ 6, ở bộ Vũ Ninh quận Siêu Loại Hương Vĩnh Thế có một gia đình lạc tướng dòng dõi nhà vua tên là Hùng An (hay người dân Yến Vĩ thường gọi là Hùng Công – một cách gọi tránh phạm huý) lấy vợ người làng Yến Vĩ tên là Nguyễn Thị (cách gọi chung cho các bậc phu nhân nhằm tránh phạm huý).
Vợ chồng ông bà đức độ cao siêu, hay làm việc thiện với dân, nhưng hiềm nỗi Hùng Công tuổi đã cao mà chưa sinh được quý tử nối nghiệp. Một hôm bà Nguyễn nói với ông Hùng Công: “Thiếp kết duyên với Vương gia là do thiên định, thiếp xin về quê Hương Tích, cầu xin quý tử để nối nghiệp vương gia”. Hùng Công nghe nói ngỡ ngàng, vội sai gia nhân sắm sửa lễ nghi tháp tùng bà đi về Hương Tích.
Trong những ngày nghỉ lại ở hương thôn Yến Vĩ bà Nguyễn Thị đi vào núi Ngũ Nhạc, ngồi nghỉ dưới gốc cây vạn tuế. Khi ngả lưng thiếp đi, bà gặp thần núi cho biết: “Tiên nữ giáng trần nay đã gần đến định kì về trời, thiên đình cho Hoàng Hổ tinh xuống đầu thai làm con, mai sau cứu nước phù Vua trả nghĩa mối trần duyên…”.
Bà Nguyễn giật mình tỉnh giậy,
vừa lo, vừa mừng bái tạ thần linh trở lại hương thôn Yến Vĩ. Hôm sau bà cùng gia nhân thu xếp hành trang, cảm tạ bô lão, dân hương Yến Vĩ về Vĩnh Thế. Về đến nhà bà kể lại chuyện cho Hùng Công nghe. Hùng Công biết là trời cho thần tướng xuống đầu thai làm con mình, nhưng cũng rất lo buồn vì chỉ còn một thời gian ngắn nữa thôi là vợ chồng li biệt. Buồn vui lẫn lộn,
Hùng Công không nói lên lời. Thấm thoắt ngày qua, đến giờ ngọ ngày mồng sáu tháng ba năm Canh Tuất bà Nguyễn sinh ra một người con trai mặt vuông chán rộng, tay dài quá gối, tướng mạo đã lộ vẻ oai phong. Vợ chồng Hùng Công cùng gia nhân vui mừng không xiết đặt tên cho con là Hùng Lang.
Để tạ ơn trời đất,
Hùng Công lại sai gia nhân cùng bà Nguyễn về núi Ngũ Nhạc làm lễ. Sau những ngày làm lễ ở hương thôn Yến Vĩ, Hùng Công được gia nhân báo tin rằng bà Nguyễn đã hoá về trời để lại cho Hùng Công một phong thư:
“Phong thư hảo tín giáng nhân gian
Ký giữ lang quân đắc tự khan
Xuất thế sơn thần lai hữu hỷ
Giao hồi nguyện báo dĩ thừa hoan”
Dịch:
“Phong thư gửi lại chốn nhân gian
Đọc kỹ lang quân sẽ rõ ràng
Thần núi xuống trần mừng để lại
Ngày sau giúp nước cứu dân an”.
Hùng Công đọc thư lòng đau khôn xiết vội cùng gia nhân, già lão hương dân Yến Vĩ lo việc an nghỉ cho bà Nguyễn Hùng Công nói với hương dân Yến Vĩ: “Con ta, vợ ta đều có tiền duyên ở Hương Tích – nơi lưu dấu thơm của Đức phật Nam Hải Quan Thế Âm, cảnh kỳ sơn tú thuỷ, quần tiên tụ hội.
Ta xin hương dân Yến Vĩ cho lưu lại nơi đây nuôi dạy con ta và trả nghĩa mối lương duyên thiên định…”. Năm Hùng Lang 13 tuổi thì Hùng Công về trời, Hùng Lang sống cùng thôn dân Yến Vĩ.
Năm Hùng Lang 18 tuổi đã thành người uy đức khác thường,
đêm ngày ôn luyện võ nghệ tinh thông, được dân hương rất tôn kính. Một hôm, Hùng Lang dạo chơi núi Ngũ Nhạc nhận được một thanh kiếm báu có hào quang phát ra.
Lấy làm kỳ diệu, Hùng Lang bái tạ trời đất về cùng trai làng luyện tập võ nghệ. Năm sau, nhà vua mở hội kén người hiền tài, Hùng Lang cùng một số trai làng lên đường dự tuyển. Ngay đợt dự tuyển này Hùng Lang đã đỗ đầu, được nhà Vua phong làm quan Tư Mã chỉ huy nhị đạo thuỷ bộ đốc quân.
Cùng lúc bấy giờ nhà Ân phương Bắc cậy binh hùng tướng giỏi đem quân xâm lấn nước Văn Lang. Thế giặc mạnh, quân giặc tàn ác đi đến đâu là đốt phá hương ấp, chém giết người vô tội khiến lê dân trăm họ lầm than. Trước tình hình đó, nhà Vua hạ chỉ cho quân Tư Mã đem quân thuỷ bộ chặn giặc và sai sứ giả về mười lăm bộ tìm thần tướng, hiền tài ra đánh giặc cứu nước.
Quân Tư Mã vâng chỉ nhà Vua hội quân thuỷ bộ dưới cờ Đức Thánh Phù Đổng giết giặc.
Bộ tướng của giặc Ân là Thạch Linh bị quan Tư Mã đại tướng Hùng Lang chém giết tại trận tiền, quân giặc thua chạy về phương Bắc. Giặc tan, Đức Thánh Phù Đổng phi ngựa sắt đến núi Sóc Sơn thì hoá về trời, còn quan Tư Mã Hùng Lang mang tin thắng trận về Triều phục chỉ.
Vua Hùng Huy Vương cùng thần dân mười lăm bộ mở hội mừng chiến thắng, đất nước Văn Lang trở lại thái bình hoan lạc. Nhà vua ban cho quan Tư Mã áo Cẩm Bào, năm trăm hoàng kim, cho hưởng lộc vùng Hương Tích là thang mộc ấp. Quan Tư Mã xin vua cùng triều thần về quê mẹ, có trai hương theo Ngài.
Ngài đem hoàng kim nhà vua ban chia cho dân hương Yến Vĩ, Ngài dạy dân thương yêu giúp nhau làm nương cấy lúa. Ngài mở hội mừng vui với hương dân. Khi hội vui đã về khuya, trên trời mây mưa kéo đến, sấm chớp ầm ầm, cả vùng thang mộc ấp Yến Vĩ đổ mưa. Một luồng hào quang vút lên không trung, quan Tư Mã Hùng Lang đã về trời.
Ngày đó là ngày mồng sáu tháng mười một năm Giáp Thìn
đời vua Hùng Huy Vương thứ 6. Ngày hôm sau già lão hương dân cử người dâng sớ lên nhà Vua báo tin. Lúc này nhà vua mới hay tin là trời đã cho thần tướng xuống phù vua đánh giặc cứu dân Văn Lang qua cơ binh lửa, trăm họ khỏi lầm than. Vua Hùng Huy Vương hạ chiếu ban kim ngân, cho phép hương dân lập đền thờ Quan Tư Mã ở núi Ngũ Nhạc và ban thang mộc ấp của Ngài cho dân hương Yến Vĩ hương khói ngàn năm thờ phụng.
Câu đối ở Đền Trình Ngũ Nhạc:
“Trời nam dựng nước tựa Vua Hùng
Công tựa đất trời sánh biển sông
Mười lăm bộ, thần dân cả nước
Hùng – Gia dòng giống vốn cùng chung”
***********
“Danh tướng thủa hồng bàng
Quyết giệt giặc ân phù Vua Hùng vận
Phúc thần làng Yến Vỹ
Vui ngân vần điệu lưu để cùng dân.”
Kể từ đó, hàng năm cứ đến ngày mồng sáu tháng giêng, dân làng Yến Vĩ mở hội mừng xuân, tưởng nhớ võ công oanh liệt của Ngài và làm lễ Khai Sơn để dân xã lên rừng xin lộc. Ngày nay dân làng lấy ngày mồng 6 tháng giêng là ngày khai hội Chùa Hương
Sự tích thánh hoàng làng theo quan niệm người việt
Các vị Thần linh, Thành Hoàng, Thánh Mẫu là các bậc tiền nhân đã có công với cộng đồng làng xã, dân tộc trong lịch sử đấu tranh giữ nước và dựng nước của người Việt Nam.
Ngày nay, theo nếp xưa người Việt Nam ở khắp mọi miền đất nước hàng năm vẫn đi lễ, đi trẩy Hội ở các Đình, Đền, Miếu, Phủ vào các ngày lễ, tết, tuần tiết, sóc, vọng và ngày Hội, để tỏ lòng tôn kinh, ngưỡng mộ biết ơn các bậc Tôn thần đã có công với đất nước.
Đình, Đền, Miếu, Phủ cùng với sự lưu truyền sự linh diệu của các thần trong nhiều trường hợp đã đi vào trang sử oai hùng của dân tộc Việt Nam góp phần không nhỏ vào việc duy trì tình cảm yêu nước.
Nơi thờ tự Đình, Đền, Miếu, Phủ còn là những nơi sinh hoạt tâm linh, tín ngưỡng. Con người hy vọng rằng bằng những hành vi tín ngưỡng, có thể cầu viện đấng Thần linh phù hộ cho bản thân, cùng gia đình, cộng đồng được an khang, thành đạt và thịnh vượng, yên bình, biến hung thành cát, giải trừ tội lỗi…
Sắm lễ mâm cúng đúng chuẩn
Theo phong tục cổ truyền khi đến Đình, Đền, Miếu, Phủ nên có lễ vật có thể to, nhỏ, nhiều, ít, sang, mọn tuỳ tâm. Mặc dù ở những nơi này thờ Thánh, Thần, Mẫu nhưng người ta vẫn có thể sắm các lễ chay như hương hoa quả, oản,… để dâng cũng được.
1. Lễ Chay: Gồm hương hoa, trà, quả, phẩm oản… dùng để lễ ban Phật, Bồ Tát (nếu có).
Lễ chay cũng dùng để dâng ban Thánh Mẫu. Trong trường hợp này sắm thêm một số hàng mã để dâng cũng như: tiền, vàng, nón, hia…
2. Lễ Mặn: Gồm gà, lợn, giò, chả… được làm cẩn thận, nấu chín. Nếu có lễ này thì đặt bàn thờ Ngũ vị quan lớn tức là ban công đồng.
3. Lễ đồ sống: Gồm trứng, gạo, muối hoặc thịt mồi (một miếng thịt lợn khoảng vài lạng)
Đây là lễ dành riêng cho việc dâng cúng quan Ngũ Hổ, Bạch xà, Thanh xà đặt ở hạ ban Công Đồng Tứ phủ.
Theo lễ thường thì gồm 5 quả trứng vịt sống đặt trong một đĩa muối, gạo, hai quả trứng gà sống đặt trong hai cốc nhỏ, một miếng thịt mồi được khía (không đứt rời) thành năm phần, để sống.
Kèm theo lễ này cũng có thêm tiền vàng.
4. Cỗ mặn sơn trang:
Gồm những đồ đặc sản Việt Nam: cua, ốc, lươn, ớt, chanh quả… Nếu có gạo nếp cẩm nấu xôi chè thì cũng thuộc vào lễ này.
Theo lệ thường, khi sắm lễ mặn sơn trang, người ta thường sắm theo con số 15: 15 con ốc, cua, 15 quả ớt, chanh hoặc có thể chỉ cần 1 quả nhưng được khía ra làm 15 phần… Con số 15 này tương ứng với 15 vị được thờ tại ban sơn trang: 1 vị chúa, 2 vị hầu cận, 12 vị cô sơn trang
5. Lễ ban thờ cô, thờ cậu: Thường gồm oản, quả, hương hoa, hia, hài, nón, áo… (đồ hàng mã) gương, lược… Nghĩa là những đồ chơi mà người ta thường làm cho trẻ nhỏ. Nhưng lễ vật này cầu kỳ, nhỏ, đẹp và được bao trong những túi nhỏ xinh xắn, đẹp mắt.
6. Lễ thần Thành Hoàng, Thư điền: Thường dùng lễ mặn: chân giò lợn luộc, xôi, rượu, tiền, vàng…
Thứ tự dâng lễ
– Theo lệ thường, người ta lễ thần Thổ địa, thủ Đền trước, gọi là lễ trình. Gọi là lễ trình vì đó là lễ cáo Thần linh Thổ Địa nơi mình đến dâng lễ. Người thực hành tín ngưỡng cáo lễ Thần linh cho phép được tiến hành lễ tại Đình, Đền, Miếu, Phủ.
Sau đó người ta sửa sang lễ vật một lần nữa. Mỗi lễ đều được sắp bày ra các mâm và khay chuyên dùng vào việc cúng lễ tại Đình, Đền, Miếu, Phủ.
– Kế đến là đặt lễ vào các ban. Khi dâng lễ phải kính cẩn dùng hai tay dâng lễ vật, đặt cẩn trọng lên bàn thờ. Cần đặt lễ vật lên ban chính trở ra ban ngoài cùng.
– Chỉ sau khi đã đặt xong lễ vật lên các ban thì mới được thắp hương.
– Khi làm lễ, cần phải lễ từ ban thờ chính đến ban ngoài cùng. Thường lễ ban cuối cùng là ban thờ cô thờ cậu.
– Thứ tự khi thắp hương:
Thắp từ trong ra ngoài
Ban thờ chính của điện được đặt theo hàng dọc, ở gian giữa được thắp hương trước.
Các ban thờ hai bên được thắp hương sau khi đã thắp xong hương ban chính ở gian giữa.
Khi thắp hương cần dùng số lẻ: 1, 3, 5, 7 nén. Thường thì 3 nén.
Sau khi hương được châm lửa thì dùng hai tay dâng hương lên ngang trán, vái ba vái rồi dùng cả hai tay kính cẩn cắm hương vào bình trên ban thờ.
Nếu có sớ tấu trình thì kẹp sớ vào giữa bàn tay hoặc đặt lên một cái đĩa nhỏ, hai tay nâng đĩa sớ lên ngang mày rồi vái 3 lần.
Trước khi khấn thường có thỉnh chuông. Thỉnh ba hồi chuông. Thỉnh chuông xong thì mới khấn lễ.
Khi tiến hành lễ dâng hương bạn có thể đọc văn khấn, sớ trình trước các ban, hoặc chỉ cần đặt văn khấn, sớ trình lên một cái đĩa nhỏ, rồi đặt vào mâm lễ dâng cúng cũng được.
Khi hoá vàng thì phải hoá văn khấn và sớ trước.
Văn khấn Thành hoàng ở Đình, Đền, Miếu
– Con lạy chín phương trời, mười phương Chư Phật, Chư Phật mười phương.
– Con kính lạy Hoàng Thiên Hậu Thổ chư vị Tôn thần.
– Con xin kính lạy ngài Kim Niên Đương cai Thái tuế chí đức Tôn thần.
– Con kính lạy ngài Bản cảnh Thành Hoàng chư vị Đại Vương.
Hưởng tử con là………………………………………………..Tuổi………….
Ngụ tại……………………………………………………………………….
Hôm nay là ngày…… tháng……năm………………..(Âm lịch)
Hương tử con đến nơi…………… (Đình hoặc Đền hoặc Miếu) thành tâm kính nghĩ: Đức Đại Vương nhận mệnh Thiên đình giáng lâm ở nước Việt Nam làm Bản cảnh Thành Hoàng chủ tể một phương bấy nay ban phúc lành che chở cho dân. Nay hương tử chúng con thành tâm dâng lên lễ bạc, hiến tế hương hoa, phẩm oản…
Cầu mong đức Bản cảnh Thành hoàng chư vị Đại Vương chứng giám, rủ lòng thương xót, phù hộ che chở cho chúng con sức khoẻ dồi dào, mọi sự tốt lành, lắm tài nhiều lộc, an khang thịnh vượng, sở cầu như ý, sở nguyện tòng tâm.
Hương tử con lễ bạc tâm thành, trước án kính lễ, cúi xin được phù hộ độ trì.
Phục duy cẩn cáo!
Cách hạ lễ đúng nhất
Sau khi kết thúc khấn, lễ ở các ban thờ, thì trong khi đợi hết một tuần nhang có thể viếng thăm phong cảnh nơi thừa tự, thờ tự.
Khi thắp hết một tuần nhang có thể thắp thêm một tuần nhang nữa. Thắp nhang xong, vái 3 vái trước mỗi ban thờ rồi hạ tiền, vàng… (đồ mã) đem ra nơi hoá vàng để hoá. Khi hoá tiền, vàng… cần hoá từng lễ một, từ lễ của ban thờ chính cho tới cuối cùng là lễ tiền vàng… ở ban thờ Cô thờ cậu.
Hoá tiền vàng xong mới hạ lễ dâng cúng khác. Khi hạ lễ thì hạ từ ban ngoài cùng vào đến ban chính.
Riêng các đồ lễ ở bàn thờ Cô, thờ Cậu như gương, lược… thì để nguyên trên bàn thờ hoặc giả nơi đặt bàn thờ này có nơi để riêng thì nên gom vào đó mà không đem về.
Văn khấn ban Công Đồng
– Con lạy chín phương trời, mười phương Chư phật, Chư phật mười phương
– Con lạy đức Vua cha Ngọc Hoàng Thượng Đế
– Con lạy Tam Toà Thánh Mẫu
– Con lạy Tam phủ Công Đồng, Tứ phủ Vạn linh
– Con lạy Tứ phủ Khâm sai
– Con lạy Chầu bà Thủ Mệnh
– Con lạy Tứ phủ Đức Thánh Hoàng
– Con lạy Tứ phủ Đức Thánh Cô
– Con lạy Tứ phủ Đức Thánh Cậu
– Con lạy cộng đồng các Giá, các Quan, mười tám cửa rừng, mười hai cửa bể.
– Con lạy quan Chầu gia.
Hương tử con là:…………………………………….Tuổi…………………..
Cùng đồng gia đại tiểu đẳng, nam nữ tử tôn
Ngụ tại:……………………………………………………….
Hôm nay là ngày…… tháng…… năm………………(Âm lịch). Tín chủ con về Đền…………… thành tâm kính lễ, xin Chúa phù hộ độ trì cho gia đình chúng con sức khoẻ dồi dào, phúc thọ khang ninh, cầu tài đắc tài, cầu lộc đắc lộc, cầu bình an đắc bình an, vạn sự hanh thông, gặp nhiều may mắn.
Phục duy cẩn cáo!
Văn khấn lễ Tam Toà Thánh Mẫu
Đức đệ tứ khâm sai Thánh Mẫu, tứ vi chầu bà, năm toà quan lớn, mười dinh các quan, mười hai Tiên cô, mười hai Thánh cậu, ngũ hổ Đại tướng, Thanh Hoàng Bạch xà đại tướng
– Con kính lạy Đức Hiệu Thiên chí tôn kim quyết Ngọc Hoàng Huyền khung cao Thượng đế.
– Con kính lạy Hoàng Thiên Hậu Thổ chư vị Tôn thần.
– Con xin kính Cửu trùng Thanh Vân lục cung công chúa.
– Con kính lạy Đức thiên tiên Quỳnh Hoa Liễu Hạnh Mã Hoàng Công chúa, sắc phong Chế Thắng Hoà Diệu đại vương, gia phong Tiên Hương Thánh Mẫu.
– Con kính lạy Đức đệ nhị đỉnh thượng cao sơn triều mường Sơn tinh công chúa Lê Mại Đại Vương.
– Con kính lạy Đức đệ tứ khâm sai Thánh Mẫu, tứ vi chầu bà, năm toà quan lớn, mười dinh các quan, mười hai Tiên cô, mười hai Thánh cậu, ngũ hổ Đại tướng, Thanh Hoàng Bạch xà đại tướng.
Hưởng tử con là……………………………………….Tuổi……………….
Ngụ tại………………………………………………………..
Hôm nay là ngày…… tháng.…..năm………………………….(Âm lịch)
Hương tử con đến nơi Điện (hoặc Phủ, hoặc Đền)………chắp tay kính lễ khấu đầu vọng bái, lòng con thành khẩn, dạ con thiết tha, kính dâng lễ vật, cúi xin các Ngài xót thương phù hộ độ trì cho gia đạo chúng con sức khoẻ dồi dào, phúc thọ khang ninh, cầu tài đắc tài, cầu lộc đắc lộc, cầu bình an đắc bình an, vạn sự hanh thông, gặp nhiều may mắn.
Hương tử con lễ bạc tâm thành, trước án kính lễ, cúi xin được phù hộ độ trì.
Phục duy cẩn cáo!